Nuôi yến trong nhà là một nghề đặc
thù ở vùng Đông Nam Á. Vào năm 2001, Indonesia có 10.000 ngôi nhà yến, Malaysia
có 1.000. Mười năm sau, Indonesia đã có khoảng 100.000 nhà, Malaysia là 40.000,
và lúc này Thái Lan cũng có 60.000-70.000 nhà.
Nghề nuôi Yến - sao cho bền vững?
Indonesia
là nước có sản lượng yến lớn nhất. Năm 2008, riêng nước này cung cấp 70% nhu
cầu tổ yến cho toàn thị trường. Thái Lan đứng thứ hai. Tiếp theo là Malaysia.
Năm 2008, nước này sản xuất 25 tấn tổ yến, có giá trị tương đương 1 tỷ RM. Hiện
Malaysia đang phấn đấu đạt mức 30% thị trường toàn cầu, tạo ra doanh thu 1,45
tỷ USD vào năm 2020.
Đón đầu nghề nuôi Yến
Năm 2008,
trọng lượng tổ yến tiêu thụ trên thị trường thế giới là 260 tấn, đạt doanh thu
khoảng 4,3 tỷ đô la Mỹ. Thị trường nhập khẩu chính là Hồng Kông chiếm 50% lượng
mua bán tổ yến thế giới; cộng đồng người Hoa ở các nước Mỹ, Australia, New
Zealand tiêu thụ khoảng 15%; Trung Quốc 8%, Đài Loan 4% và Macao 4%.
Riêng năm
2006, các nơi này đã tiêu thụ 160 trên tổng số 200 tấn tổ yến được bán ra trên
toàn thế giới. Ngoài ra, tổ yến còn được bán sang các nước Canada, Châu Âu,
Singapore, Nhật Bản, Nam Triều Tiên...
Giá bán tổ
yến đã sơ chế tại Hồng Kông từ 6.000 - 7.000 USD/kg. Trừ vàng, tổ yến sơ chế
đắt hơn bất cứ kim loại nào trên thế giới.
Nghề nuôi
yến du nhập vào Việt Nam từ năm 2004, phát triển ra các hộ dân năm 2005. Hiện
nay, nuôi chim yến tại đây đã dần thành một nghề với khoảng vài ngàn nhà yến,
trong đó một số ít hộ gia đình có 5-6 nhà yến.
Một nhà
nuôi yến thu hoạch trung bình 700-800gr đến 1kg tổ yến mỗi tháng, có nhà thu
hơn 10kg/tháng. Tuy nhiên cũng có không ít căn nhà sau một số năm xây dựng,
chim vào rất ít, chim con sau khi sinh ra đều bay mất.
Qua nhiều
năm tham gia hoạt động và theo dõi phát triển của nghề mới này tại Việt Nam,
tôi thấy, hiện có khoảng 60-70% nhà yến xây dựng đã có chim vào làm tổ, riêng ở
Bình Định đạt đến 80%, nhưng năng suất không đồng đều và phải chỉnh sửa nhiều
lần.
Các vùng
nuôi yến ở Việt Nam có thể tính từ Nghệ An trở vào đến đảo Phú Quốc, Cà Mau.
Nhiều nhất là TP.HCM (tính cả Cần Giờ) khoảng vài trăm nhà yến, tiếp đến là
Khánh Hòa khoảng 100, Bình Định có 60-70 nhà; sau đó là Tiền Giang, Kiên Giang,
Phú Yên, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Bạc Liêu, Quảng Ngãi, Long
Thành, Bình Dương, Đồng Nai..., mỗi tỉnh đều có hàng chục nhà yến.
Đầu tư vào
nghề này thường là những người Việt Nam có điều kiện kinh tế khá, vì vốn đầu tư
ban đầu khá cao, tốc độ hoàn vốn lại chậm. Hiện tại Việt Nam có một số nhà đầu
tư nước ngoài như Malaysia, Singapore, Thái Lan, Indonesia. Các nhà đầu tư nước
ngoài này thường tự làm nhà yến cho mình, và đã khá thành công.
Về đội ngũ
nhà thầu tư vấn, ở Việt Nam có khoảng 3-5 nhà tư vấn có tên tuổi, trong đó có
những nhà tư vấn tuy không xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng, nhưng nhiều nhà yến do họ làm đều có kết quả tốt.
Trong
tháng 10/2010, có một chuyên gia tư vấn có uy tín ở Đông Nam Á vào Việt Nam.
Ông này dự báo, đến năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 10.000 nhà yến, tức gấp 6-7
lần hiện nay.
Chưa ai
tính được sản lượng tổ yến của Việt Nam trong năm 2010. Mặc dù vậy có thể đưa
ra một tư liệu cụ thể đã được đăng tải chính thức: Huyện Cần Giờ (TP.HCM) có 77
căn nhà nuôi chim yến (với tổng diện tích xây dựng 34.688,4m²), trong đó 17 căn
có sản phẩm thu hoạch và 60 căn mới xây dựng, gây nuôi chưa có sản phẩm.
Sản lượng
thu hoạch của 17 nhà nuôi chim yến ở đây qua các năm như sau:
+ Năm 2008
là 60kg, năm 2009 thu 250kg, năm 2010 thu 400kg. Giá thị trường khoảng 35 triệu
đồng/kg yến thô. Như vậy, năm 2010, tổng trị giá tổ yến của Cần Giờ đạt khoảng
14 tỷ đồng.
+ Nhưng để
có kết quả này, đòi hỏi vốn đầu tư xây dựng nhà nuôi chim yến rất lớn. Hơn nữa,
sản lượng này chỉ tập trung vào một số ít nhà.
Nghề nuôi Yến không phải là một nghề dễ
Việt Nam
nằm trong vùng có điều kiện thiên nhiên thích hợp với chim yến, lại có bờ biển
dài, nhiều hồ ao, sông ngòi, cửa sông, là những yếu tố mang lại nguồn thức ăn
phong phú cho chim yến. Nhưng, chim yến là một loài sống phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên, có đặc tính sinh học đặc biệt. Vì vậy, nuôi yến hoàn toàn không phải một nghề dễ.
Sự phát
triển của chim yến có mối quan hệ tỷ lệ thuận với bảo vệ môi trường. Nếu môi
trường thiên nhiên bị phá hủy do đô thị hóa, chim yến có thể sống trong “khách
sạn 5 sao”, nhưng thức ăn không đủ, chim buộc phải đi rất xa để kiếm ăn, sự
tiêu tốn năng lượng sẽ làm cho số lượng quần đàn giảm xuống.
Trong nuôi
yến, cần chú ý mối cân bằng sinh học giữa côn trùng - chim yến - con người,
nghĩa là cần nghĩ đến sự cân bằng giữa lượng thức ăn có trong tự nhiên với tổng
đàn yến và số nhà yến mà con người xây dựng.
Có thể nêu
một ví dụ về cân bằng sinh học ảnh hưởng đến sản lượng: Trong khi tại
Indonesia, Malaysia, tỷ lệ thất bại của nuôi yến trong nhà là 40% thì tại
Philippines, tỷ lệ thành công là 83%.
Lý do tỷ
lệ thất bại ở Indonesia và Malaysia khá cao là vì số trại và nhà nuôi yến phát
triển nhanh hơn số lượng chim.
Indonesia
có công nghệ nuôi yến trong nhà rất phát triển, nhưng thất thu một phần vì nuôi
yến thiếu kiểm soát. Ngoài ra, cần biết một đặc điểm của loài yến là phân bố
không đồng đều. Ở Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa có rất nhiều hang yến, nhưng
mỗi tỉnh chỉ có một hang có sản lượng cao nhất đạt 60-70% sản lượng tổ của mỗi
tỉnh.
Trong nghề
nuôi yến, cơ hội thành công nhiều nhất là xây nhà ở gần nhà có nhiều yến (trung
tâm yến) hoặc gần đảo yến (cách khoảng 10km trở xuống là tốt nhất).
Ngày nay,
người ta có thể sử dụng máy gọi chim và quan sát đường chim bay, vùng chim kiếm
mồi để xem sau thời gian bao lâu thì gọi được bao nhiêu chim về, từ đó xác định
địa điểm xây dựng.
Chim yến
có thói quen trở về nơi mà nó sinh ra, nhất là chim bố mẹ, nên thường chỉ dụ
được chim con.
Vì vậy, ở
khu vực có nhiều nhà yến thì nhà mới xây dựng cần phải có kỹ thuật cao, như
băng tiếng gọi bầy đàn tốt nhất, chất dẫn dụ tốt, các điều kiện về nhiệt độ, độ
ẩm, độ thông thoáng phải thật phù hợp với yêu cầu sinh lý sinh thái của chim,
thì chim mới vào nhiều và ở lại. Nếu không, chim sinh con ra trong nhà đó cũng
sẽ lại đi sang các nhà khác có điều kiện tốt hơn.
Quy hoạch
những vùng nuôi yến cách xa thành phố là cách tốt nhất để vừa phát triển đàn
yến, tăng sản lượng tổ yến khai thác, vừa bảo vệ môi trường sống của con người.
Hiện nay ở
Việt Nam đã có các khu nuôi yến tập trung như ở xã Tam Thôn Hiệp (huyện Cần
Giờ, TP.HCM). Tỉnh Ninh Thuận cũng mới có dự án quy hoạch nuôi yến tập trung
hai bên bờ sông Dinh. Một xu hướng mới hiện nay ở nước ngoài là hình thành các
khu nuôi yến tập trung trong vườn sinh thái Ecopark, với yêu cầu là ở xa khu
dân cư 10-50 km.
Hiện
Malaysia có 20 dự án nuôi yến như vậy, trong đó Ecopark tại Johor Baruh có 100
đơn vị nhà yến, kích thước mỗi đơn vị khoảng 6 x 22m. Ở Indonesia, các khu nuôi
yến tập trung nhiều tại vùng nông thôn và hải đảo.
Việt Nam
có nhiều đảo, có thể quy hoạch nuôi yến trên một số đảo. Mô hình xây dựng nhà
yến trên đảo đã hoàn tất. Theo tổng kết đề tài năm 2008, nhà yến đảo Bình Định
đã có mấy chục tổ yến. Mô hình xây nhà nuôi yến trên đảo ở Việt Nam đã chứng
minh chim yến đảo có thể vào nhà sống bình thường khi ta tạo dựng điều kiện
sinh thái phù hợp cho nó.
Để nghề
nuôi yến phát triển bền vững, nuôi côn trùng cũng là một hướng đang được bổ cứu
hiện nay. Một số nước trong vùng đã hoàn thiện kỹ thuật xây nhà nuôi côn trùng
sát nhà yến.
Ngoài ra
cần phải trồng thêm các loài cây mà yến yêu thích và bảo vệ môi trường thiên
nhiên ven biển. Thái Lan đã bảo tồn được khu rừng ngập mặn nên đàn chim yến của
Thái Lan phát triển rất nhanh.
Sự thành
công về nghề yến của các nước Đông Nam Á đã phát triển đến mức hình thành các
tổ chức ngành nghề, như Hiệp hội các nhà nuôi yến, Hiệp hội thương mại tổ yến,
để những người có cùng sự quan tâm có thể trao đổi thông tin thương mại, kỹ
thuật, điều hòa hoạt động…
PGS. TS. Nguyễn Khoa Diệu Thu
0 nhận xét :
Đăng nhận xét